Tài liệu hướng dẫn ôn tập môn Ngữ văn 9 - Chủ đề: Thơ, truyện hiện đại Việt Nam - Năm học 2019-2020 - Đồng Văn Xuân
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tài liệu hướng dẫn ôn tập môn Ngữ văn 9 - Chủ đề: Thơ, truyện hiện đại Việt Nam - Năm học 2019-2020 - Đồng Văn Xuân", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
tai_lieu_huong_dan_on_tap_mon_ngu_van_9_chu_de_tho_truyen_hi.doc
Nội dung text: Tài liệu hướng dẫn ôn tập môn Ngữ văn 9 - Chủ đề: Thơ, truyện hiện đại Việt Nam - Năm học 2019-2020 - Đồng Văn Xuân
- PHÒNG GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO QUỲNH PHỤ TRƯỜNG TH & THCS QUỲNH HOA TÀI LIỆU HƯỚNG DẪN ÔN TẬP MÔN NGỮ VĂN 9 CHỦ ĐỀ: THƠ, TRUYỆN HIỆN ĐẠI VIỆT NAM PHẦN I: KIẾN THỨC CẦN NHỚ: Bài 1: “ĐỒNG CHÍ ” - CHÍNH HỮU. 1.Tác giả - Chính Hữu tên là Trần Đình Đắc, sinh năm 1926, quê ở Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh. - Ông tham gia hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mĩ. Từ người lính Trung đoàn Thủ đô trở thành nhà thơ quân đội. - Chính Hữu làm thơ không nhiều, thơ ông thường viết về người lính và chiến tranh, đặc biệt là những tình cảm cao đẹp của người lính, như tình đồng chí, đồng đội, tình quê hương đất nước, sự gắn bó giữa tiền tuyến và hậu phương. - Thơ ông có những bài đặc sắc, giàu hình ảnh, cảm xúc dồn nén, ngôn ngữ cô đọng, hàm súc. - Chính Hữu được Nhà nước trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật năm 2000. 2. Tác phẩm - Bài “Đồng chí” sáng tác đầu năm 1948, sau khi tác giả cùng đồng đội tham gia chiến đấu trong chiến dịch Việt Bắc (thu đông năm 1947) đánh bại cuộc tiến công quy mô lớn của giặc Pháp lên chiến khu Việt Bắc. - Bài thơ là một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất viết về người lính cách mạng của văn học thời kháng chiến chống thực dân Pháp (1946 – 1954). - Bài thơ đi theo khuynh hướng : Cảm hứng thơ hướng về chất thực của đời sống kháng chiến, khai thác cái đẹp, chất thơ trong cái bình dị, bình thường, không nhấn mạnh cái phi thường. - Mạch cảm xúc (bố cục) Phần 1: 6 câu thơ đầu: Lý giải về cơ sở của tình đồng chí. Câu 7 có cấu trúc đặc biệt (chỉ với một từ với dấu chấm than) như một phát hiện, một lời khẳng định sự kết tinh tình cảm giữa những người lính. Phần 2: 10 câu thơ tiếp theo 9từ câu 8 -> 17) : Những biểu hiện cụ thể và sức mạnh của tình đồng chí, đồng đội của người lính + Đó là sự cảm thông sâu xa những tâm tư, nỗi lòng của nhau (Ruộng nương anh gửi bạn thân cày nhớ người ra lính) + Đó là cùng nhau chia sẻ những gian lao, thiếu thốn của cuộc đời người lính (Áo anh rách vai . Chân không giầy) + Sự lạc quan và tình đồng chí đồng đội đã giúp người lính vượt qua được những gian khổ, thiếu thốn ấy. -Phần 3: 3 câu cuối: Chất thơ trong cuộc sống chiến đấu của người lính. 3.Gợi ý phân tích. a. Cơ sở hình thành tình đồng chí: - Tình đồng chí bắt nguồn từ sự tương đồng về cảnh ngộ xuất thân của những người lính: + giới thiệu thật giản dị xuất thân của người lính: họ là những người nông dân nghèo. + Không hẹn đợi, chẳng thân quen, bỗng nhiên trở nên thân quen, gần gũi. 1
- - Tình đồng chí được hình thành từ sự cùng chung nhiệm vụ, cùng chung lí tưởng, - Tình đồng chí nảy nở và trở thành bền chặt trong sư chan hoà và chia sẻ mọi gian lao cũng như niềm vui: - câu thơ 7 được nhà thơ đột ngột rút ngắn và hạ xuống một dòng thơ thật đặc biệt với hai tiếng: “Đồng chí”! Câu thơ ngắn, cùng với hình thức cảm thán mang âm điệu vui tươi, vang lên như một sự phát hiện, một lời khẳng định. Hai tiếng “đồng chí” mới mẻ biết chừng nào, nửa quen, nửa lạ đã nói lên một tình cảm lớn lao, mới mẻ của thời đại. “Đồng chí” theo nghĩa gốc là những người cùng chí hướng trong việc mưu đồ một sự nghiệp chung ở trong một tổ chức. Nhưng đến bài thơ này thì tình đồng chí vừa là tình chiến đấu vừa là tình thân. Đó là một tiếng gọi sâu thẳm và thiêng liêng. Tình đồng chí, đồng đội của những người lính bắt đầu ngân vang từ hai chữ “đồng chí”.Dòng thơ chỉ có một dòng mà có tác dụng khép mở tài tình, khép lại đoạn một - một đoạn đường từ “xa lạ” đến “quen nhau” và mở ra đoạn hai – những biểu hiện cao đẹp của tình đồng chí. b. Những biểu hiện cảm động của tình đồng chí: - là sự cảm thông sâu sắc tâm tư nỗi niềm của nhau. + Từ “mặc kệ” cho thấy tư thế ra đi dứt khoát của người lính. + “người ra lính” vẫn đêm ngày ôm ấp bóng hình quê hương? Biết bao nhớ nhung! Những người lính không nói mình nhớ, lại chỉ nói người khác nhớ. - Tình đồng chí còn là cùng nhau chia sẻ những gian lao, thiếu thốn của cuộc đời người lính: + Những gian lao, thiếu thốn trong cuộc sống của người lính: áo rách, quần vá, chân không giày . + Chữ “biết” nghĩa là nếm trải, cùng chung chịu gian nan thử thách. + “Miệng cười buốt giá” thể hiện sâu sắc tinh thần lạc quan của người lính. + tay nắm lấy bàn tay: anh nắm lấy tay tôi, tôi nắm lấy bàn tay anh, để động viên nhau truyền cho nhau tình thương . - “anh” và “tôi” luôn đi đôi với nhau, có khi đứng chung trong một câu thơ, có khi đi sóng đôi trong từng cặp câu liền nhau. Cấu trúc ấy đã diễn tả sự gắn bó, chia sẻ của những người đồng đội. Vượt qua những cơn lạnh thấu xương chỉ có thể bằng nghị lực, bản thân, bằng sự nâng đỡ của tình người, tình đồng chí. c. Đoạn kết bài thơ là một bức tranh đẹp về tình đồng chí, đồng đội của người lính. - Ba câu cuối cùng kết thúc bài thơ bằng những hình ảnh thơ thật đẹp: - Nổi lên trên nền cảnh rừng đêm hoang vắng, lạnh lẽo - hiện thực khắc nghiệt của những đêm rừng Việt Bắc là hình ảnh người lính “đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới”. Đó là hình ảnh cụ thể của tình đồng chí sát cánh bên nhau trong chiến đấu. Họ đã “đứng cạnh bên nhau” giữa cái nơi giá rét của rừng đêm, giữa cái căng thẳng của những giây phút “chờ giặc tới”. Tình đồng chí đã sưởi ấm lòng họ, giúp họ vượt lên tất cả .. Tầm vóc của người lính bỗng chốc trở nên lớn lao, anh hùng. - “Đầu súng trăng treo”- một hình ảnh cô đọng giàu cảm xúc. - “Súng” biểu tượng cho chiến tranh, cho hiện thực khốc liệt. “Trăng” biểu tượng cho vẻ đẹp yên bình, mơ mộng và lãng mạn. Hai hình ảnh “súng và “trăng” kết hợp với nhau tạo nên một biểu tượng đẹp về cuộc đời người lính: chiến sĩ mà thi sĩ, thực tại mà mơ mộng. 4. Tổng kết: Tình đồng chí của người lính dựa trên những cơ sở cùng chung cảnh ngộ và lí tưởng chiến đấu được thể hiện thật tự nhiên, bình dị mà sâu sắc trong mọi hoàn cảnh, nó góp phần quan trọng tạo nên sức mạnh và vẻ đẹp tinh thần của người lính cách mạng. 2
- Bài thơ thể hiện hình tượng người lính cách mạng và tình đồng chí của họ qua những chi tiết, hình ảnh, ngôn ngữ giản dị, chân thực, cô đọng, giàu sức biểu cảm. BÀI 2: BÀI THƠ VỀ TIỂU ĐỘI XE KHÔNG KÍNH - PHẠM TIẾN DUẬT. 1. Tác giả - Phạm Tiến Duật sinh năm 1941, quê ở tỉnh Phú Thọ. Sau khi tốt nghiệp đại học, năm 1964 vào bộ đội, hoạt động ở tuyến đường Trường Sơn và trở thành một trong những nhà thơ tiêu biểu của phong trào thơ trẻ những năm kháng chiến chống đế quốc Mỹ. - Thơ ông giàu chất liệu hiện thực, chiến trường, thể hiện sinh động, có giọng điệu ngang tàng, tinh nghịch, sôi nổi, tươi trẻ, đã làm sống lại hình ảnh thế hệ trẻ ở Trường Sơn và những khó khăn của thời đánh Mỹ gian khổ. - Phạm Tiến Duật thể hiện hình ảnh thế hệ thanh niên trong cuộc chiến tranh chống đế quốc Mỹ qua những hình tượng cô gái thanh niên xung phong và anh bộ đội trên tuyến đường Trường Sơn. - Tác phẩm chính: Vầng trăng -Quầng lửa(1970), Thơ một chặng đường ( 1971), Ở hai đầu núi (1981). Nhiều bài thơ đã đi vào trí nhớ của công chúng như các bài: Trường Sơn Đông, Trường Sơn tây, Lửa đèn, Gửi em cô thanh niên xung phong . 2. Tác phẩm: - Bài thơ về tiểu đội xe không kính rút từ tập thơ Vầng trăng -Quầng lửa của tác giả. Là tác phẩm đoạt giải nhất trong cuộc thi thơ trong báo Văn nghệ (1969 - 1970). - Bài thơ được ra đời trong thời kỳ cuộc kháng chiến chống Mĩ diiễn ra rất ác liệt. Mĩ trút hàng ngàn, hàng vạn tấn bom trên con đường chiến lược Trường Sơn. Trong khi đó những đoàn xe vận tải vẫn băng ra chiến trường vì Miền Nam phía trước. 3. Gợi ý phân tích: Đây là một bài thơ khá độc đáo. a. Cái độc đáo đã bộc lộ ngay từ nhan đề bài thơ, một cái nhan đề có vẻ như dài và thừa. Có lẽ chỉ cần viết “Tiểu đội xe không kính” là đủ, là nói rõ được hiện thực phản ánh. Nhưng nhà thơ lại viết “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”. Hai chữ “Bài thơ” nói lên cách khai thác hiện thực: không phải chỉ viết về những chiếc xe không kính, chỉ viết về hiện thực khốc liệt của chiến tranh, mà chủ yếu là khai thác chất thơ vút lên từ hiện thực ấy, chất thơ của tuổi trẻ VN vượt lên những khắc nghiệt của chiến tranh. b. Sáng tạo độc đáo nhất là hình ảnh những chiếc xe không kính vẫn băng ra chiến trường. - Bài thơ mở đầu bằng một câu thơ rất lạ, giản dị như một lời nói thường: Không có kính không phải vì xe không có kính. - câu văn xuôi, hình ảnh thơ lạ lại là một hình ảnh thực, thực đến trần trụi, đó là những chiếc xe “không kính” rồi “không đèn”, “không mui” ấy vẫn chạy băng ra tiền tuyến. nguyên nhân của nó cũng rất thực: Bom giật, bom rung, kính vỡ đi rồi”.Hình ảnh “bom giật, bom rung” vừa giúp ta hình dung được một vùng đất từng được mệnh danh là “túi bom” của dịch vừa giúp ta thấy được sự khốc liệt của chiến tranh. - xe mất kính, thậm chí “không có kính, rồi xe không có đèn – Không có mui xe thùng xe có xước”. 3
- b. Hình ảnh những chiếc xe không kính đó làm nổi bật hình ảnh những chiến sĩ lái xe ở Trường Sơn. *Trên chiếc xe không kính, người lính hiện ra với tư thế ung dung, hiên ngang, bình tĩnh Ung dung buồn lái ta ngồi Nhìn đất nhìn trời nhìn thẳng. - Đảo ngữ “ung dung” với điệp từ “nhìn” cho ta thấy cái tư thế ung dung, thong thả, khoan thai, bình tĩnh, tự tin của người làm chủ, chiến thắng hoàn cảnh. Nhịp thơ 2/2/2 với những dấu phẩy ngắt khiến âm điệu câu thơ trở nên chậm rãi, như diễn tả thái độ thản nhiên đàng hoàng. - biến những nguy hiểm trở ngại trên đường thành niềm vui thích, một sự hưởng thụ, một cách tiếp xúc trực tiếp, mạnh mẽ với không gian bên ngoài. + Những cảm giác của người chiến sĩ trong chiếc xe không kính được miêu tả thật chân thực, chính xác + Những chữ “nhìn” lặp đi lặp lại như một niềm sảng khoái bất tận. + Không có nên “:gió vào xoa mắt đắng”, nào là “con đường chạy thẳng vào tim”, rồi “sao trời”, rồi “cánh chim” đột ngột, bất ngờ như sa, như ùa- rơi rụng, va đập, quăng ném.... vào buồng lái, vào mặt mũi, thân mình. Đó là những ấn tượng thực nhưng qua cách cảm nhận của tác giả, đã trở thành những hình ảnh lãng mạn. Lời thơ nhẹ nhõm, trôi chảy như những chiếc xe vun vút chạy trên đường. * Thái độ bất chấp khó khăn, coi thường gian khổ, tinh thần lạc quan của người lính trẻ. - Những câu thơ giản dị như lời nói cửa miệng của người lính: “không có kính ừ thì có bụi, ừ thì ướt áo”, “chưa cần rửa”, “chưa cần thay” Điệp khúc ấy tạo nên giọng điệu ngang tàng, bất chấp. Trước thử thách mới, người chiến sĩ vẫn không nao núng mà các anh càng bình tĩnh, dũng cảm hơn, chấp nhận thử thách như một tất yếu. Đầu tóc mặt mũi bụi bám trắng không cần rửa, áo ướt không cần thay, và vẫn có thể “phì phèo châm điếu thuốc – Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha”. Sự bình thản đã đạt đến mức vô tư lự một cách thật trẻ trung, cái thái độ “phót tỉnh” cũng rất trẻ trung. * Tình đồng chí, đồng đội gắn bó keo sơn, thắm thiết - một nét đẹp phẩm chất của người lính. - Những khoảnh khắc của chiến tranh, giữa sống chết, những người lính gắn bó nhau như ruột thịt, gia đình: + Cái bắt tay độc đáo thay cho lời nói như một sự bù đắp tinh thần cho sự thiếu thốn về vật chất. + nghỉ ngơi thoải mái, xuềnh xoàng, nhường nhịn nhau như anh em ruột thịt.: chung bát,chung đũa, mắc võng chông chênh... chỉ trong một thoáng chốc. + Tình cảm gia đình người lính thật bình dị, ấm áp thân thương tạo nên sức mạnh, nâng bước chân người lính để rồi các anh lại tiếp tục hành quân: “Lại đi lại đi trời xanh thêm”, vì lòng người phơi phới say mê trước những chặng đường đã đi và đang đến. “Trời xanh thêm” * Điều làm nên sức mạnh để người lính vượt qua khó khăn, gian khổ chính là tình yêu nước, là ý chí chiến đấu giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc. - Bom đạn kẻ thù đã tước đi của chiếc xe rất nhiều, biến chiếc xe trở thành trơ trụi đến kì lạ: “không kính, không mui, không đèn, thùng xe có xước...” - Điệp ngữ “không có” nhắc lại ba lần như nhân lên những thử thách khốc liệt. 4
- - Sức mạnh để chiếc xe băng mình ra trận chính là sức mạnh của trái tim người lính, một trái tim nồng nàn tình yêu nước và sôi trào ý chí chiến đấu, giải phóng miền Nam, thống nhất tổ quốc. - Điệp ngữ “không có”, các từ ngữ tương ứng “vẫn chỉ cần có” đã làm cho giọng thơ, ý thơ trở nên mạnh mẽ, hào hùng. Vẫn là cách nói thản nhiên ngang tàng của lính nhưng câu thơ lại lắng sâu một tinh thần trách nhiệm và có ý nghĩa như một lời thề thiêng liêng. Quyết tâm chiến đấu và chí khí anh hùng của người lính không có đạn bom nào của kẻ thù có thể làm lay chuyển được. 5. Tổng kết: Bài thơ đã sáng tạo một hình ảnh độc đáo: những chiếc xe không kính, qua đó khắc hoạ nổi bật hình ảnh những người lính lái xe ở Trường Sơn trong thời kì kháng chiến chống Mĩ cứu nước, với tư thế hiên ngang, tinh thần dũng cảm, bất chấp khó khăn nguy hiểm, niềm vui sôi nổi của tuổi trẻ và ý chí chiến đấu giải phóng miền Nam. Tác giả đưa vào bài thơ chất liệu hiện thực sinh động của cuộc sống ở chiến trường, cùng với ngôn ngữ và giọng điệu giàu tính khẩu ngữ tự nhiên, khoẻ khoắn. *********************************************** Bài 3: ĐOÀN THUYỀN ĐÁNH CÁ - HUY CẬN 1. Tác giả: - Huy Cận bút danh là Cù Huy Cận, sinh năm 1919, quê ở hà Tĩnh. Ông mất năm 2005 tại Hà Nội. - Huy Cận là một cây bút nổi tiếng của phong trào thơ mới với tập thơ “Lửa thiêng” giàu chất triết lí và thấm thía bao nỗi buồn. - Ông tham gia cách mạng từ trước năm 1945. Sau cách mạng tháng Tám, ông giữ nhiều trọng trách trong chính quyền cách mạng, đồng thời là một nhà thơ tiêu biểu của nền thơ hiện đại Việt Nam từ sau năm 1945. - Thơ Huy cận sau cách mạng tràn đầy niềm vui, niềm tin yêu cuộc sống mới. Thiên nhiên, vũ trụ là nguồn cảm hứng dồi dào trong thơ Huy Cận và nó mang những nét đẹp riêng. Hàng loạt tập thơ nối tiếp ra đời: “Trời mỗi ngày lại sáng” (1958), “Đất nở hoa” (1960), “bài thơ cuộc đời” (1963), “hai bàn tay em” (1967) - Huy Cận mất năm 2005, tại Hà Nội. 2. Tác phẩm. a. Hoàn cảnh sáng tác: - Bài thơ được viết vào ngày 1.10, năm 1958, tại vùng biển Hồng Gai, Quảng Ninh, in trong tập thơ : “Trời mỗi ngày lại sáng””. b. Bố cục: Bài thơ gồm 7 khổ, mỗi khổ gồm bốn câu thơ 7 chữ, được bố cục theo hành trình của một chuyến ra khơi đánh cá. + Đoạn 1: Hai khổ thơ đầu: Cảnh đoàn thuyền ra khơi lúc hoàng hôn và tâm trạng náo nức của người đi biển. + Đoạn2 : 4 khổ tiếp: Cảnh lao động của đoàn thuyền đánh bắt cá giữa không gian biển trời ban đêm. + Đoạn 3: khổ thơ cuối: Cảnh đoàn thuyền trở về trong cảnh bình minh lên. - Trong bài thơ có hai nguồn cảm hứng bao trùm và hài hoà với nhau: cảm hứng về lao động và cảm hứng về thiên nhiên vũ trụ, vốn là một nét nổi bật của hồn thơ Huy Cận. Sự thống nhất của hai nguồn cảm hứng ấy thể hiện qua kết cấu và hệ thống hình ảnh của bài thơ. 5
- + Về kết cấu: Thời gian của bài thơ là nhịp tuần hoàn của vũ trụ từ lúc hoàng hôn cho đến bình minh, và cũng là thời gian hoạt động của đoàn thuyền đánh cá ra khơi rồi trở về. Không gian của bài thơ là không gian rộng lớn bao la với mặt trời, biển, sóng, mâ, gió, trăng, sao ., cũn là không gian của cảnh lao động. + Về hệ thống hình ảnh: Nhiều hình ảnh thơ đã gắn liền với công việc lao động của con người với nhịp sống của thiên nhiên đất trời: “Câu hát căng buồm cùng gió khơi”, “thuyền ta lái gió với buồm trăng - Lướt giữa mây cao với biển bằng”, “gõ thuyền đã có nhịp trăng cao”, “Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời” .Hình ảnh đoàn thuyền đánh cá qua cái nhìn của nhà thơ trở nên lớn lao, kì vĩ, bay bổng. 3. Phân tích bài thơ. a. Hai khổ thơ đầu: Tả cảnh đoàn thuyền ra khơi lúc hoàng hôn và tâm trạng náo nức của người đi biển. *Cảnh mặt trời lặn được miêu tả thật độc đáo và đầy ấn tượng: - “mặt trời xuống biển” là một cảnh tượng lạ, chỉ có thể nhìn thấy từ một hòn đảo nào đó ngoài khơi, hoặc từ một con thuyền đang ra biển - “Sóng đã cài then đêm sập cửa”, có một liên tưởng thật bất ngờ: vũ trụ như một ngôi nhà lớn với màn đêm buông xuống là tấm cửa khổng lồ với những lượn sóng hiền hoà gối đầu nhau chạy ngang trên biển như những chiếc then cài cửa. *.Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi trong thời điểm ấy. - Giữa lúc vũ trụ, đất trời như chuyển sang trạng thái nghỉ ngơi thì ngược lại, con người bắt đầu hoạt động: “Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi. Câu hát căng buồm trong gió khơi. -> Sự đối lập này làm nổi bật tư thế lao động của con người trước biển cả. + Nhịp thơ nhanh mạnh như một quyết định dứt khoát. Từ “lại” vừa biểu thị sự lặp lại tuần tự, thường nhật, liên tục mỗi ngày của công việc lao động vừa biểu thị ý so sánh ngược chiều với câu trên: đất trời vào đêm nghỉ ngơi mà con người bắt đầu lao động, một công việc lao động không ít vất vả. + Hình ảnh “câu hát căng buồm” - cánh buồm căng gió ra khơi- là ẩn dụ cho tiếng hát của con người có sức mạnh làm căng cánh buồm. Câu hát là niềm vui, niềm say sưa hứng khởi của những người lao động lạc quan yêu nghề, yêu biển và say mê với công việc chinh phục biển khơi làm giầu cho Tổ quốc. *Câu hát của người lao động còn mang theo một niềm mong mỏi tha thiết, vừa hiện thực vừa lãng mạn: - hát ca ngợi sự giầu có của biển cả, hát gọi cá vào lưới, mong muốn công việc đánh cá thu được kết quả tốt đẹp. - Từ dáng cá hình thoi, nhà thơ chợt liên tưởng đến biển như một tấm lụa lớn mà đàn cá là “đoàn thoi” đang vun vút qua lại. Liên tưởng này lại kéo theo một liên tưởng khác: “Đoàn thoi”cá dệt nên tấm lưới của người dân chài. b.Bốn khổ thơ giữa miêu tả cảnh đoàn thuyền đánh cá trên biển bao la, hùng vĩ: *.Biển rộng lớn mênh mông và khoáng đạt trong đêm trăng sáng. - thuyền băng băng lướt đi trên sóng, thuyền đánh cá vốn nhỏ bé trước biển cả bao la giờ đây qua cái nhìn của nhà thơ chợt trở nên lớn lao, kì vĩ. - gió là người cầm lái, trăng là cánh buồm. Con thuyền băng băng lướt sóng ra khơi để “dò bụng biển”. - tầm vóc của con người được nâng lên hòa nhập vào kích thước của thiên nhiên vũ trụ. *Biển giầu đẹp nên thơ và có thật nhiều tài nguyên: 6
- - cách liệt kê tên các loài cá và tập trung miêu tả màu sắc của chúng trong đêm trăng. Những con cá song giống như ngọn đuốc đen hồng đang lao đi trong luồng nước dưới ánh trăng lấp lánh quả là hình ảnh ẩn dụ độc đáo. Tuy nhiên “cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe” lại là hình ảnh đẹp nhất. Ánh trăng in xuống mặt nước, những con cá quẫy đuôi như quẫy ánh trăng tan ra vàng chóe. Phải thật tinh tế mới có được những phát hiện tuyệt vời ấy. Cảnh biển về đêm mới đẹp đẽ và thi vị làm sao! - “Đêm thở sao lùa nước Hạ Long” là hình ảnh nhân hóa đẹp. Đêm được miêu tả như một sinh vật đại dương: nó thở. Tiếng thở của biển đêm chính là ánh sao lùa sóng nước, hoà với tiếng gõ thuyền trong nhịp điệu hối thúc của đêm tàn . *.Biển không những giầu đẹp mà còn rất ân nghĩa thủy chung, bao la như lòng mẹ. Biển cho con người cá, nuôi lớn con người. Những người dân chài đã hát bài ca gọi cá vào với họ: - Trong đêm trăng sáng, vầng trăng in xuống mặt nước, sóng xô bóng trăng dưới nước gõ vào mạn thuyền thành hình ảnh “nhịp trăng cao gõ”. Có thể nói đây là hình ảnh lãng mạn đầy chất thơ làm đẹp thêm công việc lao động đánh cá trên biển. Thiên nhiên đã cùng với con người hòa đồng trong lao động. - Câu thơ “biển cho ta cá như lòng mẹ. Nuôi lớn đời ta tự buổi nào” là một lời hát ân tình sâu sắc trong bài ca lao động say sưa thơ mộng, hùng vĩ và đầy lòng biết ơn. *.Một đêm trôi đi thật nhanh trong nhịp điệu lao động hào hứng hăng say: Những đôi bàn tay kéo lưới nhanh thoăn thoắt gợi lên vẻ đẹp rắn rỏi, khỏe mạnh với những bắp tay cuồn cuộn của người dân chài khi kéo mẻ lưới đầy cá nặng. Từ phía chân trời bắt đầu bừng sáng. c. hình ảnh đoàn thuyền đánh cá trên đường trở về: - trở về vào lúc bình minh cũng trong tiếng hát. Những câu thơ được lặp lại như một điệp khúc của một bài ca lao động. Chữ “hát” xuất hiện bốn lần trong bài thơ, đem lại âm điệu tươi vui khoẻ khoắn của một khúc ca lao động đầy hào hứng, say mê. Nếu như tiếng hát lúc trước thể hiện niềm vui khi lao động thì tiếng hát sau lại thể hiện sự phấn khởi vì kết quả lao động sau một đêm làm việc hăng say. Họ trở về trong tư thế mới “chạy đua cùng mặt trời”. Từ “chạy đua” thể hiện khí thế lao động mạnh mẽ, sức lực vẫn dồi dào của người lao động. Đoàn thuyền được nhân hóa, cả mặt trời cũng tham gia vào cuộc chạy đua này và kết quả con người đã chiến thắng. - Hai câu kết khép lại bài thơ nhưng lại mở ra một cảnh tượng thật kì vĩ và chói lọi. Phải nói rằng Huy Cận đã rất tinh tế khi miêu tả sự vận hành của vũ trụ. Mặt trời từ từ nhô lên trên sóng nước xanh lam , chiếu tỏa ánh sáng rực rỡ, cảnh biển bừng sáng và còn đẹp hơn với kết quả lao động. Con thuyền chở về khoang nào cũng đầy ắp cá. Mắt cá phản chiếu ánh mặt trời giống như muôn vàn mặt trời nhỏ li ti. Đó thật sự là một cảnh tượng đẹp, huy hoàng giữa bầu trời và mặt biển, giữa thiên nhiên và thành quả lao động. d. Tổng kết. Theo hành trình chuyến ra khơi của đoàn thuyền đánh cá, bài thơ đã khắc họa nhiều hình ảnh đẹp tráng lệ về thiên nhiên vũ trụ và người lao động, thể hiện sự hài hoà giữa thiên nhiên và con người, bộc lộ niềm vui, niềm tự hào của nhà thơ trước đất nước và cuộc sống. Bài thơ có nhiều sáng tạo trong xây dựng hình ảnh bằng liên tưởng, tưởng tượng phong phú độc đáo; có âm hưởng khoẻ khoắn, hào hùng lạc quan. ******************************************** Bài 4: BẾP LỬA 7
- 1. Tác giả - Bằng Việt là bút danh của Nguyễn Việt Bằng, sinh năm 1941 tại Huế, nhưng quê gốc ở huyện Thạch Thất, tỉnh Hà Tây. Bằng Việt làm thơ từ đầu những năm 1960 và thuộc thế hệ các nhà thơ trưởng thành trong thời kì kháng chiến chống Mĩ. Thơ Bằng Việt, cảm xúc tinh tế, có giọng điệu tâm tình, mượt mà, trong trẻo, tràn đầy cảm xúc. Đề tài thơ thường đi vào khai thác những kỉ niệm, những kí ức và ước mơ tuổi trẻ, thơ Bằng Việt rất dễ đem lại cảm xúc cho người đọc, nhất là các bạn đọc trẻ tuổi. - Tác phẩm chính: Hương cây - Bếp lửa (thơ in chung với Lưu Quang Vũ – 1968), Những gương mặt, những khoảng trời (1973), đất sau mưa (thơ – 1977), Khoảng cách giữa lời (thơ – 1983). Cát sáng (thơ 1986), Bếp lửa - Khoảng trời (thơ tuyển 1988)... 2. Tác phẩm. - “Bếp lửa” là một trong những sáng tác đầu tay của BV, được sáng tác năm 1963, khi BV đang là sinh viên khoa pháp lí trường Đại học tổng hợp Ki – ép (Liên xô cũ). - “Bếp lửa” được đánh giá là một bài thơ hay viết về tình bà cháu. -. Bố cục : 3 phần: + Phần 1: 3 dòng đầu: hình ảnh bếp lửa khơi nguồn cho dòng cảm xúc hồi tưởng về bà + Phần 2: Từ “lên bốn tuổi” đến “niềm tin dai dẳng”: những kỉ niệm tuổi thơ và hình ảnh người bà gắn liền với hình ảnh bếp lửa trong hồi tưởng của cháu. + Phần 3: Từ “lận đận đời bà... đến “thiêng liêng bếp lửa”: suy ngẫm về bà và cuộc đời bà. + Phần 4: (4 dòng cuối): Hình ảnh bà và bếp lửa sống mãi trong tâm hồn cháu. - Mạch cảm xúc của bài thơ rất tự nhiên, đi từ hồi tưởng đến hiện tại, từ kỉ niệm đến suy ngẫm: hình ảnh bếp lửa gợi về những kỉ niệm tuổi thơ sống bên bà tám năm ròng, làm hiện lên hình ảnh bà với bao vất vả và tình yêu thương trìu mến dành cho đứa cháu; từ kỉ niệm, đứa cháu nay đã trưởng thành suy ngẫm và thấu hiểu về cuộc đời bà, về lẽ sống giản dị mà cao quý của bà; cuối cùng, người cháu muốn gửi niềm nhớ mong về bà. 4. Phân tích nội dung bài thơ. a. Những hồi tưởng về bà và tình bà cháu. * Khổ 1 nói về bếp lửa và lòng cháu thương bà. Khi nhớ về quê hương, người ta thường nhớ về những kỉ niệm gắn liền trong quá khứ như dòng sông, bến đò, cây đa . Đối với Bằng Việt, sự hồi tưởng được bắt đầu từ hình ảnh thân thương, ấm áp về bếp lửa: - “một bếp lửa” t thành điệp khúc mở đầu bài thơ với giọng điêụ sâu lắng, hình ảnh quen thuộc trong mọi gia đình. Hình ảnh bếp lửa thật ấm áp giữa cái lạnh của “chờn vờn sương sớm”, thật thân thương với bao tình cảm “ấp iu nồng đượm”. Các từ “ấp iu”, “nồng đượm”, “chờn vờn” . được dùng rất hình tượng. - Hình ảnh bếp lửa, rất tự nhiên đánh thức dòng cảm xúc hồi tưởng của cháu về bà: “Cháu thương bà biết mấy nắng mưa”. Nghĩ về bếp lửa, nhớ về bếp lửa mà trong lòng đứa cháu đi xa trào dâng một cảm xúc thương bà mãnh liệt. * Từ đó, bài thơ gợi lại cả một thời thơ ấu bên người bà ( Khổ 2,3,4) - cả một tuổi thơ nhọc nhằn, gian khổ. Kí ức đưa nhân vật trở về những năm “đói mòn đói mỏi” của nạn đói năm 1945. - Tuổi thơ ấy còn có cái gian khổ chung của thời kì kháng chiến chống Pháp: giặc giã tàn phá xóm làng: Cháu sống trong sự nuôi nấng, dậy dỗ của bà : “Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe - Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học”. 8
- - Kỉ niệm về những năm tháng tuổi thơ gắn liền với bếp lửa, với khói bếp bởi “Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói”, tức là sớm phải lo toan. Và sau đó “tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa”, cho nên nhớ về tuổi thơ, nhân vật trữ tình “chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu – Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay”. Cái cảm giác cay nơi sống mũi khi nhớ về tuổi thơ ấy đâu chỉ là vì khói, mà chủ yếu là vì cồn cào một nỗi nhớ thương bà. Cảm giác ấy thật chân thực và xúc động trong hai câu thơ có giá trị biểu cảm cao. - Nhớ nhất vẫn là hình ảnh người bà bên bếp lửa: “rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen”. Bếp lửa hiện diện như tình bà ấm áp, như chỗ dựa tinh thần, như sự cưu mang đùm bọc đầy chi chút của người bà. Bên bếp lửa, bà “hay kể chuyện những ngày ở Huế”, rồi “bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học”, “bà dặn cháu đinh ninh: => Tình bà ấm áp lại càng ấm áp hơn bên bếp lửa. Hình ảnh người bà bỗng nhiên trở nên cao lớn, vĩ đại .Bà là hiện thân cụ thể nhất, sinh động nhất cho hậu phương lớn. Trong nhiều gia đình Việt Nam, - tiếng chim tu hú trong suốt tám năm ròng của tuổi thơ - những kỉ niệm đầy ắp âm thanh, ánh sáng và những tình cảm sâu sắc xung quanh cái bếp lửa quê hương : +Tiếng chim tu hú là tiếng chim quen thuộc của đồng quê mỗi độ vào hè. + Âm điệu tha thiết của câu thơ còn gợi ra tình cảnh vắng vẻ, côi cút, vời vợi nhớ thương của hai bà cháu. b. Những suy ngẫm về bà và hình ảnh bếp lửa. (Khổ 5,6) - Từ những kỉ niệm hồi tưởng về tuổi thơ và bà, người cháu trở về hiện tại để suy ngẫm về cuộc đời và lẽ sống của bà và cũng là để thương bà nhiều hơn, nhớ bà nhiều hơn. Hình ảnh bà luôn gắn liền vời hình ảnh bếp lửa, ngọn lửa. Có thể nói bà là “người nhóm lửa”, lại cũng là người giữ cho ngọn lửa luôn ấm nóng và toả sáng trong mỗi gia đình. + Sự tần tảo, đức hi sinh chăm lo cho mọi người của bà được tác giả thể hiện trng một chi tiết rất tiêu biểu: + Cuộc đời của bà nhiều “lận đận”, trải qua nhiều “nắng mưa” vất vả. + Điệp từ “nhóm” được nhắc đi nhắc lại 4 lần trong 4 câu thơ đan kết với những chi tiết rất thực có điểm chung là cùng gắn với hành động nhóm bếp, nhóm lửa của bà nhưng lại khác nhau ở những ý nghĩa cụ thể: khi thì nhóm bếp lửa ấp iu, nồng đượm để sưởi ấm cho bà cháu qua cái lạnh buốt của sương sớm; đến câu tiếp theo thì đã vừa nhóm bếp luộc khoai, luộc sắn cho cháu ăn đỡ đói lòng mà như còn đem đến cho đứa cháu nhỏ cái ngọt bùi của sắn khoai, của tình yêu thương vô hạn của bà. Đến câu tiếp theo thì lòng bà còn mở rộng hơn cùng với nồi xôi gạo mới mùa gặt là tình cảm xóm làng đoàn kết, gắn bó, chia ngọt, sẻ bùi và đến câu thứ tư thì hoàn toàn mang nghĩa trừu tượng: nhóm dậy cả tâm tình tuổi nhỏ. Tình cảm của bà bao la giản dị như khoai sắn và cũng đậm đà như khoai sắn. + Các từ ngữ “ấp iu nồng đượm”, “yêu thương”, “ngọt bùi”, “chung vui” thể hiện sự tinh luyện của một ngòi bút nghệ thuật, đã diễn tả thật hay tình thương, niềm vui, sự no ấm, hạnh phúc mà bà đã mang lại cho con cháu. Bà đã “nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ”, nuôi dưỡng và làm bừng sáng những ước mơ, những khát vọng của đàn cháu nhỏ. Bếp lửa bà nhen đã nhóm lên ngọn lửa của tình thương ấm áp. + sự kì diệu, thiêng liêng: “ÔI! Kì lạ và thiêng liêng - Bếp lửa”. ngọn lửa của bà, cháu nhận ra cả một “niềm tin dai dẳng” về ngày mai, cháu hiểu được linh hồn của một dân tộc vất vả, gian lao mà tình nghĩa. Từ bếp lửa bình dị, quen thuộc, người cháu nhận ra bao điều “kì diệu và thiêng liêng”. Ngọn lửa từ bàn tay bà với bao nhiêu yêu thương trìu mến đã nuôi lớn tuổi thơ cháu. 9
- c. Niềm thương nhớ của cháu: - Đứa cháu năm xưa giờ đã trưởng thành - không nguôi nhớ thương bà . tự hỏi: “sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?, mỗi ngày đều nhớ về bà và bếp lửa của bà. - Ngôn ngữ thơ dào dạt, lan toả như lửa ấm hay đây chính là cảm xúc dâng trào của nhân vật người cháu, của nhà thơ? Mỗi chữ cứ như hồng lên, nồng ấm biết bao tình cảm nhớ thương, ơn nghĩa. Đó là đạo lí cội nguồn của dân tộc Việt Nam chúng ta trong quan hệ gia đình – con cháu đối với cha mẹ, ông bà tổ tiên: “ăn quả nhớ kẻ trồng cây”, “ra sông nhớ suối, có ngày nhớ đêm”. 5. Tổng kết: Qua hồi tưởng và suy ngẫm của người cháu đã trưởng thành, bài thơ gợi lại những kỉ niệm đầy xúc động về bà cháu, đồng thời thể hiện lòng kính yêu, trân trọng và biết ơn của người cháu đối với bà. Tình cảm ấy là biểu hiện cụ thể và đẹp đẽ của tình cảm gắn bó với gia đình, với quê hương, đất nước. Bài thơ đã kết hợp nhuần nhuyễn giữa biểu cảm với miêu tả, tự sự và bình luận. Thành công của bài thơ còn ở sự sáng tạo hình ảnh bếp lửa gắn với hình ảnh người bà, làm điểm tựa khơi gợi mọi kỉ niệm, cảm xúc và suy nghĩ về bà và tình bà cháu. **************************************** Bài 5: KHÚC HÁT RU NHỮNG EM BÉ LỚN TRÊN LƯNG MẸ 1. Tác giả: Nguyễn KHoa Điềm sinh năm 1943, quê ở Thừa Thiên - Huế trong một gia đình trí thức cách mạng. Sau khi tốt nghiệp trường dDHSP năm 1964,. NKĐ về lại quê hương tham gia cuộc chiến đấu chống Mĩ. Ông bắt đầu làm thơ từ năm 1968, và là một nhà thơ tiêu biểu của thế hệ nhà thơ trẻ những năm kháng chiến chóng Mĩ. Thơ NKĐ giàu chất suy tư, dồn nén xúc cảm thể hiện tâm tư của người trí thức tham gia vào cuộc chiến đấu của nhân dân. Tác phẩm chính: tập thơ : Đất ngoại ô (1972); Trường ca Mặt đường khát vọng (được hoàn thành ở Bình Trị Thiên 1971, in lần đầu 1974) 2. Tác phẩm: - Bài thơ được sáng tác năm 1971, khi đang công tác ở chiến khu miền Tây Thừa Thiên, sau này bài thơ được in trong tập “Đất và khát vọng” (1984). - Bài thơ ra đời vào những năm tháng quyết liệt của kháng chiến chống Mĩ. Giai đoạn này, cuộc sống của cán bộ và nhân dân ta trên các chiến khu rất gian nan, thiếu thốn. Ở những chiến khu sản xuất, vừa sẵn sàng chiến đấu bảo vệ căn cứ. - Tác phẩm thể hiện tình yêu con và ước vọng của người mẹ dân tộc qua đó bày tỏ lòng yêu quê hương đất nước và khát vọng tự do của nhân dân ta trong cuộc kháng chiến chống Mĩ. - Nhà thơ đã thể hiện cảm nghĩ về người mẹ Tà Ôi trong ba khúc hát, tương đương với ba đoạn, ba khúc hát ru: + Khúc thứ nhất: Khúc hát ru của người mẹ thương con, thương bộ đội + Khúc thứ hai: Khúc hát ru của người mẹ thương con, thương dân làng +Khúc thứ ba: khúc hát ru của người mẹ thương con, thương đất nước. - Bài thơ có cấu trúc trùng điệp: lặp lại lời và lặp câu. Từng khúc đều mở đầu bằng hai câu thơ: “Em Cu Tai ngủ trên lưng mẹ ơi. Em ngủ cho ngoan đừng rời lưng mẹ (....) và kết thúc bằng lời ru trực tiếp của người mẹ: Ngủ ngoan A-kay ơi, ngủ ngoan A-kay hỡi. Lặp nhịp:Ở từng lời ru trực tiếp này, nhịp thơ lại được ngắt đều đặn ở giữa dòng 4/4. Cách lặp đi lặp lại, cách ngắt nhịp như thế đã tạo nên âm điệu dìu dặt, vấn vương của lời ru gần với loại hình âm nhạc. Giọng điệu trữ tình đã thể hiện một cách đặc sắc tình cảm thiết tha, trìu mến của người mẹ. 10